Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Tài liệu tham khảo đề tài "Phát triểnn kinh tế biển"

Go down

Tài liệu tham khảo đề tài "Phát triểnn kinh tế biển" Empty Tài liệu tham khảo đề tài "Phát triểnn kinh tế biển"

Bài gửi  nguyenquochoangvu 18/5/2010, 20:34

Mình là Nguyễn quốc Hoàng Vũ, mình có tìm được tài liệu này, các bạn tham khảo thử nhé.

BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM:
QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

PGS.TS. Vũ Văn Phái
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội

Phát triển kinh tế biển Việt Nam
Từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên được trình bày trên đây và tùy thuộc vào tầm
văn hóa chung của cộng đồng cũng như cách nhìn nhận về biển của từng thời đại, mà con
người Việt Nam đã từng biết khai thác và sử dụng nó phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của
mình từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
4.1. Phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh chủ quyền trong thời kỳ cổ đại và
phong kiến
Việt Nam là một quốc gia có biển. Phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh chủ
quyền quốc gia trên biển là một mục tiêu đã được đặt ra ngay từ thời khai thiên lập địa, dù
rằng mỗi thời có cách nhìn khác nhau về biển, nhưng đều với một phương châm là: lấn biển
để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Có thể chia giai đoạn này thành 2 thời kỳ: thời kỳ chưa có
Nhà nước Phong kiến Độc lập tự chủ và thời kỳ Phong kiến độc lập tự chủ.
Thời kỳ chưa có Nhà nước Phong kiến độc lập tự chủ (đến năm 938)
Từ huyền thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ cho đến hình thuyền và cá được đưa lên
mặt Trống đồng Đông Sơn đã thể hiện phương châm đó khi chưa hình thành Nhà nước
Phong kiến Độc lập tự chủ của người Việt cổ đại (trước thế kỷ thứ X). Trong thời kỳ cổ đại
với hình thức săn bắt và hái lượm, người Việt cổ đã sử dụng một số loại tài nguyên biển
trong cuộc sống của mình mà dấu ấn còn được ghi lại trong các di chỉ khảo cổ Cái Bèo - Hạ
Long (Quảng Ninh), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Bàu Tró (Quảng Bình),
Bàu Dũ (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), v.v.[10]. Muộn hơn là một số hình thức sử
dụng biển trong cuộc sống như lợi dụng thủy triều để trồng lúa hay giao thông thương mại
với các nước trong khu vực và thế giới cho đến Ba Tư ở Địa Trung Hải thông qua một số
cảng như Vân Đồn (với việc tìm thấy tiền đồng cổ của Trung Quốc từ thời Đường đến Tống
[7]), Ốc Eo (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VIII). Việc sử dụng thủy triều để đánh quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền vào năm 938 đã kết thúc một khoảng thời
gian dài trong lịch sử Việt Nam là đỉnh cao của việc sử dụng tài nguyên của biển của dân
tộc ta trong thời kỳ chưa có nhà nước phong kiến độc lập tự chủ.
Thời kỳ có Nhà nước Phong kiến Độc lập tự chủ (938 - 1945)
Trong thời kỳ kéo dài này, kinh tế biển của Việt Nam được phát triển chủ yếu vẫn là
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có vừa phục vụ cho cuộc sống, vừa để cúng
tiến các bậc vua chúa, cống nạp và một phần cho thương mại và sử dụng các điều kiện tự
nhiên của biển trong công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Về kinh tế - xã hội, bắt đầu từ
Triều Lý, phát triển kinh tế biển gắn với thương mại rất được chú ý với một thời hưng thịnh
của thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh). Tiếp theo, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hôi
và đảm bảo an ninh quốc gia đã được các Vua của Triều Trần rất quan tâm. Ngoài việc khai
thác các sản vật của biển phục vụ cho đời sống, Nhà Trần rất quan tâm đến nghề làm muối
và đã đặt ra danh hiệu quan trông coi nghề muối và phong thưởng đất làm muối. Chẳng hạn,
vợ của vua Trần Anh Tông đã được phong đất ở khu vực Diêm Điền (Thái Bình) và đã trở
thành Bà Chúa Muối. Cũng trong thời Lý - Trần, công cuộc khẩn hoang đất ven biển đã
được quan tâm. Để quản lý tốt hơn hải phận của mình, Nhà Trần đã chia miền ven biển Đại 9
Việt thành 2 khu vực là Hải Đông (từ Cửa Đáy đến Khâm - Liêm) và Hải Tây (chạy dọc
theo bờ biển Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào). Các sản vật khác được khai thác từ biển như
đánh bắt cá và làm nước mắm, khai thác tổ yến và một số loài thân mềm có giá trị (ốc
hương, ốc xà cừ, ốc tai tượng, v.v.) được xem là một trong những lĩnh vực kinh tế biển có
truyền thống lâu đời nhất vẫn tiếp tục phát triển.
Bước sang kỷ Nhà Lê, Song song với việc khai thác các nguồn lợi biển phục vụ cho
cuộc sống, việc củng cố an ninh quốc gia đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều người.
Trong đó “Quốc Triều hình luật” được xem như là bộ “luật chống tham nhũng” đối với
những quan chức làm việc ở các cửa khẩu, đặc biệt ở xứ Hải Đông. Nhằm củng cố chủ
quyền trên biển cũng như trên đất liền của nước Đại Việt, Nho sinh Đỗ Bá đã soạn bộ sách
“Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” với 4 quyển vẽ hình thế núi sông, đường bờ biển và
các đảo (trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) cho đến địa phận tỉnh Phú Yên
hiện nay (bắc Đèo Cả với núi Đá Bia). Tuy nhiên, thương mại cũng được chú ý thông qua
các vị trí quy định cho người nước ngoài được đến buôn bán, như Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần
Hải, Hội Trào, Hội Thống, Thông lĩnh, Phú Lương, Tam Kỳ và Trúc Hòa.
Có thể nói thời các Chúa Nguyễn là giai đoạn có những nhận thức về biển một cách
rõ ràng hơn. Bắt đầu từ thời Chúa Tiên, giao thương với nước ngoài đã được chú ý ở xứ
Thuận Quảng, đặc biệt với Hà lan, Bồ Đào Nha và các nước khác ở Đông Nam Á với
thương cảng quan trọng thời bấy giờ ở Đàng Trong là Hội An. Đáng chú ý nhất là việc xây
dựng các đội thuyền vừa có ý nghĩa về phát triển kinh tế cũng như bảo vệ an ninh. Nhờ có
hệ thống thuyền tốt, nên đã tổ chức được các độ Hoàng Sa và Bắc Hải để khai thác nguồn
lợi thiên nhiên ở quần đảo Hoàng Sa. Vào thời vua Minh Mạng, một số đạo luật về phát
triển kinh tế - xã hội các vùng ven biển đã được ban hành. Trên cơ sở đó, vào đầu thế kỷ
XIX, Nguyễn Công Trứ - một nhà quy hoạch thủy lợi tài ba, đã tổ chức khai hoang lấn biển
lập nên các vùng đất mới như Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) và một số vùng
đất khác ở Nam Định.
4.2. Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam từ 1945 đến nay và trong những năm tới
4.2.1. Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 40 năm (trong đó giai đoạn 1945 - 1954 cả nước
thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp và giai đoạn 1954 - 1975 đất nước bị chia cắt thành
2 miền), kinh tế biển của Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định, song vẫn trong tình trạng
lạc hậu trong nền kinh tế tự túc tự cấp với phương thức “săn bắn - hái lượm” bằng các dụng
cụ thô sơ và nhỏ bé chỉ thực hiện được ở gần bờ. Sau khi hòa bình lập lại, ở Miền Bắc, đảng
và Chính phủ đã quan tâm đến phát triển kinh tế biển, song tập trung chủ yếu cho nghề khai
thác thủy sản. Lúc này, ngoài việc thành lập các Viện Nghiên cứu biển và Viện nghiên cứu
Hải sản để điều tra nguồn lợi cá biển và các nghiên cứu cơ bản khác, các tập đoàn đánh cá
như Hạ Long, Việt - Đức, Việt - Trung và nhà máy cá hộp Hạ Long đã ra đời. Còn ở các vùng
nông thôn ven biển, các hộ ngư dân cá thế được tổ chức lại thành các hợp tác xã đánh cá. Tuy
nhiên, do trình độ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm trong quản lý kinh tế còn thấp, nên hiệu 10
quả phát kinh tế biển nói chung và nghề cá nói riêng còn rất thấp. Trước tình hình như vậy,
vào giữa những năm 1980, Đảng và Chính phủ đã quyết định thay đổi cơ chế quản lý trong
mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có phát triển kinh tế biển – bước vào thời kỳ Đổi mới.
4.2.2. Phát triển kinh tế biển của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, đường lối phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ, toàn
diện và vững mạnh, trong đó có kinh tế biển đã được xác định. Trong giai đoạn này, kinh tế
biển đã được xây dựng với đầy đủ các lĩnh vực, bao gồm: 1) nghề cá (đánh bắt, nuôi trồng
và chế biến); 2) khai thác khoáng sản; 3) hàng hải (đóng tàu, chuyên chở, xây dựng cảng);
4) du lịch và giải trí biển; 5) dịch vụ biển (sản xuất các thiệt bị, phương tiện làm việc trong
biển); 6) an ninh - quốc phòng (quản lý vùng biển). Trong đó, 4 lĩnh vực đầu sẽ được trình
bày dưới đây. Bởi vì 4 lĩnh vực này đã đóng góp tới 98% trong số các lĩnh vực kinh tế biển
nêu trên (khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản 14%; giao thông vận tải 11% và du lịch biển
trên 9%. Chiến lược phát triển kinh tế biển từ nay đến 2020 của Việt Nam đã được xác định
rõ trong Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa X về
“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” với mục tiêu “kinh tế biến đóng góp 53 - 55%
GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện
một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển” (trg.5 [4]).
1) Nghề cá. Trong khoảng thời gian 20 năm qua, nghề cá của nước ta bao gồm cả
đánh bắt và nuôi trồng đều có xu hướng liên tục tăng cả đánh bắt và nuôi trồng. Theo số liệu
thống kê, đến năm 2007, cả nước đã có 21.130 tàu đánh bắt xa bờ (tăng 593 chiếc so với
năm 2005) với tổng công suất là 3.091,6x103 CV (tăng 290,5x103 CV so với năm 2005). Do
đó, sản lượng khai thác liên tục tăng từ năm 1981 đến nay. Cụ thể năm 1981 sản lượng là
gần 420.000 tấn, năm 2007 là 1.422,3x103 tấn (tăng 54,8x103 tấn so với năm 2005 và 347,0x103
tấn so với năm 2000). Giá trị khai thác hải sản đã đạt dược khoảng trên 28 ngàn
tỷ đồng (tăng 5,5 ngàn tỷ so với năm 2005 và 13 ngàn tỷ so với năm 2001). Về nuôi trồng,
từ năm 1986 đến nay, diện tích và sản lượng nuôi trồng hải sản nược lợ, mặn liên tục tăng
lên. Các hình thức và chủng loại nuôi trồng cũng trở nên đa dạng hơn (nuôi tôm, cua, cá
trong đầm; trong lồng, bè - đối với một số cá đặc sản và tôm hùm; nuôi các lạo thân mềm
như ốc hương, vẹm xanh, tu hài, ngao, v.v.). Phương thức nuôi cũng càng ngày càng hiện
đại hơn: từ nuôi quảng canh sang thâm canh và nuôi công nghiệp. Do đó, các sản phẩm đạt
chất lượng cao hơn và được xuất khẩu rộng rãi hơn thông qua chế biến. Tuy nhiên, theo số
liệu thống kê giai đoạn 1981 - 2005, hiệu suất khai thác liên tục bị giảm: từ 0,92
tấn/CV.năm (1981) còn 0,34 tân/CV.năm (2005); năng suất lao động bình quân đầu người
cũng giảm mạnh từ 3,24 tấn/lao động.năm (1990) xuống còn 1,65 tấn/lao động.năm [1].
2) Khai thác khoáng sản biển. Ngành khai thác dầu thô và khí thiên nhiên trên biển
ở nước ta còn rất trẻ và có tấn dầu thô đầu tiên vào năm 1986. Đến nay, đã 21 năm và đứng
hàng thứ 44 trong cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới và đứng thứ 4 ở
Đông Nam Á. Hiện nay chúng ta đang khai thác mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Ruby, Rạng
Đông, Sư Tử Đen..., đã phát hiện được trên 20 vị trí có tích tụ dầu khí. Tuy mới ra đời,
nhưng ngành dầu khí của ta đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm 11
lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong những ngành khai thác biển; đồng thời cũng
là một trong những ngành xuất khẩu và thu nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Ngành công
nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự phát triển của một số ngành khác như công
nghiệp hoá dầu, giao thông vận tải, thương mại trong nước và khu vực. Trong những năm
qua, giá trị kha thác dầu mỏ và khí thiên nhiên liên tục tăng. Năm 1996 là 15.002,7 tỷ đồng,
năm 2000 là 45.401,6 tỷ đồng, năm 2005 đạt 86.379,1 tỷ đồng và năm 2006 là 93.645,7 tỷ
đồng. Ngành công nghiệp dầu khí đã đóng góp một phần đáng kể cho sản phẩm xuất khẩu
và tăng GDP cho đất nước.
3) Giao thông vận tải biển. Như đã trình bày ở phần trước, nước ta có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và
cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển
từ bắc vào nam. Hệ thống cảng biển của nước ta được chia thành 6 nhóm: 1) nhóm cảng biển
phía bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai, v.v.); 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung
Bộ (các cảng quan trọng là Nghi Sơn, Vũng Áng); 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ
Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm các cảng chính Hòn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất);
4) nhóm cảng biển Nam Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha
Trang, tương lai là Vân Phong); 5) Nhóm cảng vùng Đông nam Bộ (cảng Sài Gòn, Vũng Tàu
- Thị Vải và cảng Cái mép đang xây dựng) và 6) nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng
với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với 2 đại dương lớn là Thái Bình dương và
Ấn Độ dương và đội tàu ngày càng vững mạnh, trong những năm vừa qua vận tải hàng hóa
bằng đường biển đã tăng lên đáng kể từ 7.306,9x103 tấn năm 1995 tăng lên 15.552,5x103 tấn
năm 2000 và 42.639,4x103 tấn năm 2006. Như vậy tổng lượng hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển trong 12 năm qua (1995 - 2006) đã tăng gần 6 lần.
4) Du lịch và giải trí biển. Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế
không mới ở nước ta. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2000, du
lịch và nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Hiện nay, nước ta có
nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch
quốc tế Đông Nam Á, như: Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng,
Quảng Ninh... Một số loại hình du lịch biển mới cùng đã được dưa vào nước ta như lướt
ván, thuyền buồm, v.v. Song, tắm biển vẫn là hình thức phổ biến nhất, bởi vì dọc theo chiều
dài bờ biển nước ta ở đâu cũng có bãi cát từ bãi Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi
Nai (Hà Tiên, Kiên Giang). Doanh thu từ du lịch và số lượt khách du lịch người nước ngoài
(du lịch nói chung) cũng tăng theo thời gian. Doanh thu từ du lịch nói chung trong giai đoạn
2000 - 2006 tăng lên gần 5 lần: năm 2000 là 3.458,5 tỷ đồng, năm 2006 là 16.732,0 tỷ đồng.
Còn số lượt khách nước ngoài đã vượt con số 2 triệu kể từ năm 2005 (2005 là 2.038,5x103
lượt người, năm 2006 là 2.068,9x103 lượt người và năm 2006 là 2.605,7x103).
Các hoạt động kinh tế biển trên đây đã góp phần giải quyết được đáng kể về thu nhập
từ quy mô Nhà nước cho đến người lao động. Một số vấn đề xã hội cũng được giải quyết,
như: tăng việc làm giảm lao động thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm
bảo an ninh trật tự, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển của Tổ quốc. Tuy nhiên, trong 12
quá trình này cũng bộc lộ một số vấn đề về môi trường bao gồm cả môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội. Đó là việc sử dụng các nguồn tài nguyên biển chưa hợp lý (quy hoạch sử
dụng đất đai chưa phù hợp, khai thác nguồn lợi hải sản quá mức, v.v.) dẫn đến sự suy thoái
môi trường (ô nhiễm và các tai biến thiên nhiên) tự nhiên của biển và vùng đất ven biển, đặc
biệt là đối với vùng duyên hải (đới bờ biển). Đó là sự xung đột giữa các lĩnh vực kinh tế
biển với nhau (nghề cá - phát triển công nghiệp - giao thông vận tải - du lịch) và ngay trong
một lĩnh vực (chẳng hạn giữa đánh bắt - nuôi trông - chế biến hải sản, giữa cảng và tàu, giữa
xây dựng hạ tầng cơ sở và cảnh quan trong du lịch biển, v.v.). Đây là những vấn đề quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển ở nước ta.
Như vậy, phát triển kinh tế biển ở Việt Nam chưa được coi là bền vững. Trong khi
đó, mục tiêu hiện nay của cộng đồng quốc tế nói chung và của từng quốc gia ven biển nói
riêng là phát triển bền vững như Chương trình Nghị sự 21, chương 17 của Liên Hợp quốc đã
đưa ra [11]. Để giải quyết vấn đề này, trước tiên cần phải đánh giá và dự báo những biến
động về các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội của toàn
bộ các vùng biển và thềm lục địa cũng như dải đất liền ven biển. Tiếp theo, từ những cơ sở
khoa học này tiến hành xây dựng quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững
chung cho cả nước. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược chung của cả nước, các địa phương, các
ngành sẽ xây dựng quy hoạch hành động riêng cho địa phương mình, ngành mình.
5. Kết luận
Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra mộ vài kết luận sau:
1. Việt Nam có đường bờ biển kéo dài trên 13o
vĩ tuyến án ngữ gần như toàn bộ bờ
phía tây của Biển Đông. Các vùng biển của Việt Nam đã được Chính phủ tuyên bố bao gồm
vùng nội thủy (phía trong đường cơ sở), lãnh hải (rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng
tiếp giáp lãnh hải (rộng 24 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng đặc quyền kinh tế (rộng 200 hải
lý tính từ đường cơ sở) và thềm lục địa (mở rộng đến bờ ngoài của rìa lục địa, nơi nào hẹp
hơn thì mở rộng đến 200 hải lý).
2. Các vùng biển của Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cả trong
khối nước, trên đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển bao gồm tài nguyên sinh vật (động,
thực vật), tài nguyên khoáng sản (dầu mỏ, khí thiên nhiên, than, các loại sa khoáng, vật liệu
xây dựng,...), tài nguyên năng lượng (thủy triều, sóng, gió, mặt trời, v.v.) và các tài nguyên
đặc biệt khác (không gian mặt biển, địa hình bờ và đảo, các cảnh quan, v.v.).
3. Từ thời cổ đại đến nay, con người Việt Nam đã biết khai thác và sử dụng các
nguồn tài nguyên của biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội với trình độ từ thấp đến cao và
bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia. Hiện nay và trong những năm tới, phát triển kinh tế biển
- một trong những chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, đã và sẽ được thực hiện một cách toàn diện hơn với đầy đủ các lĩnh vực như nghề
cá (đánh bắt, nuôi trồng và chế biến), giao thông - thương mại (hệ thống cảng biển, đội
tàu,….), khai thác khoáng sản, công nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác. 13
4. Để giảm bớt những xung đột giữa kinh tế - xã hội và môi trường, giữa việc sử
dụng tài nguyên và cạn kiệt nguồn tài nguyên, giữa các ngành, giữa các địa phương, v.v.
trước tiên cần phải đánh giá và dự báo những biến động về các điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội của toàn bộ các vùng biển và thềm lục địa
cũng như dải đất liền ven biển. Tiếp theo, từ những cơ sở khoa học này tiến hành xây dựng
quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững chung cho cả nước. Trên cơ sở mục
tiêu chiến lược chung của cả nước, các địa phương, các ngành sẽ xây dựng quy hoạch hành
động riêng cho địa phương mình, ngành mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huy Cường, Đoàn Văn Phụ, 2006.Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành
thủy sản Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia về Phát triển bền vững ngành thủy sản Việt
Nam: các vấn đề và cách tiếp cận. Đồ Sơn, Hải Phòng, trg. 32 - 39
2. Nguyễn Địch Dỹ (Chủ biên), Vũ Cao Minh, Trần Minh, Đinh Văn Thuận, Mai Thành
Tân, 1995. Các kiểu đường bờ biển Việt Nam. Hà Nội, (lưu trữ tại Viện Địa chất, Viện
KH&CN VN)
3. Phùng Ngọc Đĩnh, 1999. Tài nguyên Biển Đông Việt Nam. Nxb Giáo Dục, H, 64 trang.
4. Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X). Tạp chí Kinh tế và dự
báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 406, 2/2007, HN, trg 1 và 5.
5. Vũ Văn Phái, 2007. Cơ sở địa lý tự nhiên biển và đại dương. Nxb ĐHQGHN, H, 240 trg.
6. Đoàn Thiên Tích, 2001. Dầu khí Việt Nam. Nxb ĐHQG TPHCM, HCM, 232 trang.
7. Tatsuro Y., 2008. Vân Đồn - Một thương cảng ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo về “Thương
cảng Vân Đồn - Lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa”. Quảng Ninh, trg.
17 - 40
8. Bách khoa Toàn thư Địa lý. Nxb “Bách khoa Toàn thư Xô Viết”, Mascơva, 1988, 432
trg. (tiếng Nga).
9. http.//en.wikipedia.org/wiki/list_of_country_by_length_of_coastline, 2005.
10. Viện Đông Nam Á, 1996. Biển với người Việt cổ. Nxb Văn hóa Thông tin, H, 325 trg.
11. United Nations, 1992. Report of the United Nations conference on Environment and
Development (Rio de Janeiro, 3 - 14 June 1992), Chapter 17, 51 pp.

nguyenquochoangvu

Tổng số bài gửi : 5
Join date : 17/05/2010

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết